Các nhà khoa học đã yêu cầu các nhà lãnh đạo tôn giáo chuyên nghiệp, những người chưa từng sử dụng chất thức thần, và cho họ sử dụng psilocybin, thành phần hoạt tính trong nấm thức thần. Kết quả là hầu hết đều thấy trải nghiệm này “có ý nghĩa tôn giáo, có ý nghĩa và nhìn chung có lợi”.

Theo lịch sử, đã có một số tôn giáo trên thế giới kết hợp các hợp chất thức thần vào các hoạt động tâm linh của họ. Tuy nhiên, đây là nghiên cứu đầu tiên xem xét tác động của những trải nghiệm này đối với công việc chuyên môn của các nhà lãnh đạo từ Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo và Phật giáo, bốn tôn giáo lớn nhất trên thế giới.

Gần một thập kỷ đã trôi qua kể từ khi các thử nghiệm đầu tiên bắt đầu, bị trì hoãn bởi những trở ngại, cùng với cái chết của nhà nghiên cứu chính và các tranh chấp đạo đức. Bây giờ, lần đầu tiên, kết quả đã có, làm sáng tỏ một trong những nghiên cứu khác thường nhất từng được tiến hành tại giao điểm của tôn giáo và tâm linh.
Trong một thử nghiệm lâm sàng do Đại học Johns Hopkins và Đại học New York (NYU) cùng tiến hành, 24 nhà lãnh đạo tôn giáo từ khắp Hoa Kỳ—bao gồm năm giáo sĩ Do Thái, mục sư Tin lành, một linh mục Công giáo và một nữ lãnh đạo Hồi giáo—đã được dùng một liều psilocybin được kiểm soát, hợp chất hướng thần trong nấm ma thuật, để kiểm tra tác động tâm linh của nó.
Những phát hiện được công bố trên tạp chí khoa học Psychedelic Medicine cho thấy psilocybin có thể kích hoạt những trải nghiệm tâm linh sâu sắc ngay cả ở những người theo đạo chuyên nghiệp, nâng cao ý nghĩa, cộng đồng và sự thánh thiện của họ.

Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng bối cảnh trị liệu và sự giám sát chặt chẽ là chìa khóa để khiến trải nghiệm này tương đối an toàn. Mặc dù vậy, một số người tham gia đã báo cáo những khoảnh khắc khó khăn. Đây chỉ là nghiên cứu thứ hai cùng loại kể từ “Thí nghiệm Thứ Sáu Tuần Thánh” nổi tiếng tại Harvard năm 1962, trong đó những sinh viên thần học được cho dùng psilocybin hoặc giả dược trước khi nghe bài giảng kinh thánh. Tuy nhiên, lần này, phạm vi tôn giáo rộng hơn và phương pháp luận nghiêm ngặt hơn.
Trước khi được dùng liệu trình liều cao, những người tham gia đã trải qua quá trình sàng lọc nghiêm ngặt, phỏng vấn chuyên sâu và chuẩn bị bao gồm các bài tập thiền và gặp gỡ với hướng dẫn viên. Các tác động được theo dõi trong khoảng 18 tháng thông qua các cuộc phỏng vấn và nhật ký cá nhân.
Kết quả thật đáng kinh ngạc:
- 96% xếp hạng ít nhất một trong những trải nghiệm này là một trong năm trải nghiệm có ý nghĩa tâm linh nhất trong cuộc đời họ.
- 83% báo cáo “những hiểu biết sâu sắc về mặt tâm lý”.
- 79% cho biết trải nghiệm này đã củng cố cảm giác thánh thiện của họ trong cuộc sống hàng ngày và cải thiện công việc tôn giáo của họ.
Tuy nhiên, 42% cũng mô tả những khoảnh khắc lo lắng, đau đớn hoặc bối rối. Một người tham gia, Mục sư Seth Jones, mô tả buổi thứ hai của mình là một “chuyến đi tồi tệ” thực sự. Ông nói rằng nếu không có môi trường được kiểm soát tại đại học Johns Hopkins, trải nghiệm này có thể đã khiến ông suy sụp về mặt tinh thần. Những người khác nhớ lại tiếng khóc không thể kiểm soát hoặc cảm giác tan rã.
Tiến sĩ Rabbi Julie Danan từ Cộng đồng Do Thái Seaside ở Delaware chia sẻ, “Tôi chưa bao giờ hút thuốc—kể cả cần sa. Điều này hoàn toàn khác với tính cách của tôi, nhưng đó cũng là lý do khiến nó trở nên mạnh mẽ như vậy.” Trong chuyến đi của mình, bà đã hình dung ra nỗi thống khổ của người Do Thái trong suốt chiều dài lịch sử nhưng cũng cảm thấy “một mối liên hệ mạnh liệt với đấng thiêng liêng.”
Sau các buổi liệu trình, những người tham gia vẫn giữ liên lạc thông qua một nhóm WhatsApp, các cuộc họp Zoom và một buổi retreat gặp nhau ở phía bắc New York. “Giống như khám phá ra một bộ tộc mà bạn chưa từng biết mình thuộc về”, Mục sư Jones cho biết. Một số người tham gia kể từ đó đã nổi lên như những tiếng nói hàng đầu trong cái được gọi là “sự thức tỉnh thức thần thứ hai” ở Hoa Kỳ—một phong trào đang phát triển liên kết các trạng thái ý thức thay đổi, sức khỏe tinh thần và tôn giáo.
Mục sư Jamie Clark-Soles được bổ nhiệm làm nghiên cứu viên tại Đại học Emory. Mục sư Jeff Vidt, cho biết ông đã “gặp đứa con chưa chào đời” của mình trong một buổi liệu trình, và đã trở thành một người ủng hộ công khai nổi bật với chất thức thần. Ba người tham gia đã tiếp tục thành lập các tổ chức tập trung vào hỗ trợ tinh thần thông qua chất thức thần.
Suhra Ahmed, một cựu hiệu trưởng theo đạo Hồi của Stanford, đã khởi xướng Ruhani, một dự án cung cấp hướng dẫn về chất gây thức thần cho cộng đồng Hồi giáo. Bà cho biết: “Tôi không nghĩ các nhà thờ Hồi giáo hay giáo đường Do Thái sẽ tham gia vào dự án này vào ngày mai, nhưng nhiệm vụ của chúng tôi là chuẩn bị nền tảng”. Sau đó, Rabbi – mục sự do thái Zac Kamenetz đã thành lập Shefa, nơi giúp hướng dẫn hành trình tâm linh của người Do Thái thông qua chất gây thức thần. Ông cho biết: “Nó không thay thế cho lời cầu nguyện, nhưng đó là một góc nhìn mới để chúng ta tiếp cận lại với các lời sấm truyền từ ngàn xửa của con người”.

Bất chấp sự phấn khích, nghiên cứu này đã gây ra nhiều tranh cãi đáng kể. Một nhà nghiên cứu đã rời khỏi dự án, cáo buộc nhà nghiên cứu chính quá cố, Giáo sư Roland Griffiths, đã hành động như một “người hướng dẫn tâm linh” và ảnh hưởng đến trải nghiệm của những người tham gia. Hội đồng đạo đức của Johns Hopkins đã phát hiện ra những bất thường nghiêm trọng, bao gồm sự tham gia của nhà tài trợ, việc sử dụng ngôn ngữ tôn giáo trong bảng câu hỏi và không tiết lộ xung đột lợi ích. Những người chỉ trích cho rằng việc đóng khung nghiên cứu bằng các thuật ngữ như “trải nghiệm thiêng liêng” ngay từ đầu có thể đã gây thiên vị cho những người tham gia và định hình cách diễn giải của họ trước.
Tuy nhiên, đối với những người tham gia, cánh cửa đã được mở ra. “Có rất nhiều câu hỏi chưa được trả lời và chúng tôi cần nhiều dữ liệu hơn”, Rabbi Kamenetz cho biết, “nhưng bạn không thể phủ nhận những gì đã xảy ra với chúng tôi. Công việc thực sự không phải trong phiên thử nghiệm mà là mọi thứ diễn ra sau đó”.
Giáo sư Gary Laderman, một học giả về tôn giáo tại Đại học Emory, cho biết ý nghĩa của nghiên cứu nằm ở chính sự tồn tại của nó: “Bạn không thể xây dựng một lý thuyết chỉ dựa trên ít thông tin và sự đa dạng , nhưng thực tế là hai trường đại học hàng đầu đã đầu tư vào loại nghiên cứu này cho thấy chất gây thức thần đã quay trở lại với dòng chảy văn hóa. Đây không còn là điều gì đó xa lạ nữa—mà là một xu hướng.”
Sưu tầm
Nguồn bài nghiên cứu : https://www.liebertpub.com/doi/10.1089/psymed.2023.0044