Từ khi ra mắt năm 2006, giống nấm huyền thoại Albino Penis Envy (APE) đã có nhiều phiên bản giai thoại về nguồn gốc của nó. Đây là câu chuyện về cách mà APE được khai sinh. Nhật kí của công trình này vẫn còn được lưu tại diễn đàn shroomery.
Đầu tiên, ta cùng tìm hiểu về gia phả APE.
Giống PF Albino (bạch tạng): kiểu hình đột biến sử dụng tia cực tím UV được thực hiện bởi một nhà tiên phong trong lĩnh vực trồng nấm Psilocybe tại nhà.
Phương pháp Psylocybe Fanaticus (PF) TEK bắt đầu được nhiều người nhắc đến và tháng 9 năm 1991, sau khi xuất hiện trên tạp chí High Times bởi Robert “Billy” Mcpherson aka “tiến sĩ” Psylocybe Fanaticus. Phương pháp PF Tek là một cách tối giản để trồng nấm Psilocybe cubensis bắt đầu với một xi lanh chứa bào tử nấm và nước (một thứ khá mới hồi đó) và những bánh giá thể nhỏ xinh làm từ bột gạo lứt hấp và vermiculite hấp. Không cần tới nồi áp suất hay phân bò hay những thứ phức tạp khác như các phương pháp trước đó, PF TEK mở ra cơ hội canh tác nấm Ps. tới những người mới bắt đầu đam mê trồng nấm. Phương pháp này trở nên cực kì phổ biến nhờ tới sự phát triển của Internet. Không may thay tác giả đã gặp vướng mắc về pháp lý vào năm 2003. Ông mất vào tuổi 65 năm 2011.
Giống PF bạch tạng là một đột biến ngẫu nhiên từ giống PF nguyên bản (hay còn gọi là Matias Romero hay Amazonian) được Psylocybe Fanaticus cung cấp. Năm 2000, PF bắt đầu thí nghiệm sử dụng đèn UV để trồng nấm. Phóng xạ từ tia UV bất ngờ gây ra hiện tượng bạch tạng và cuối cùng huỷ diệt bộ gen di truyền tới mức hệ sợi không thể cho ra quả được nữa. Các bản in từ các quả thể (có màu) do tiếp xúc với tia UV được bán ra với số lượng có hạn.
Người ta tin rằng tính trạng này sẽ được lưu giữ trong các bào tử và sau đó thể hiện ra trên đời sau. Điều này là hoàn toàn đúng, và nấm PF bạch tạng bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều trong cộng đồng.
PF đoán rằng các quả thể bạch tạng không có bào tử, nhưng thực ra chúng có nhiều bào tử không màu bám trên các lá tia.
Penis Envy: Giống Psilocybe Cubensis kinh điển được tuyển chọn vì hoạt chất cao
Giống Penis Envy là một kiểu hình Ps. cubensis cực phổ biến nhờ có hoạt chất cao và hình dáng giống dương vật không thể lẫn đi đâu được. Ban đầu giống này chỉ có thể mua được từ Công ty Sách Homestead và sau đó là MycoTech, cả 2 đều giờ không còn tồn tại.
Câu chuyện về nguồn gốc của giống Penis Envy từ lâu bị lu mờ bởi một mớ lời đồn đại và giai thoại, cho đến khi Hamilton Morris đăng podcast năm 2021 trong đó anh phỏng vấn Richard Guitierrez (Rich Gee), tác giả của giống Penis Envy! Ban đầu chúng có tên gọi là “Amazons”. Cái tên “Penis Envy” được Gee đặt vào năm 1987 dựa trên hình dáng của giống nấm này. Bằng chứng là bức ảnh đầu tiên của giống PE này nằm trên bìa của cuốn sách tự phát hành năm 1995 có tên “Cubensis Aquarium Gardening” bởi Rich Gee. Mặc dù cái tên Penis Envy không được nhắc đến trong sách, nhưng nhìn hình dáng chúng thì không thể lẫn vào đâu được.
Câu chuyện là như này: năm 1975, Gee đã bắt đầu phân lập bào tử từ giống Amazonian mà ông mua được ở California. Những bào tử này được quảng cáo là đến từ đời con cháu của những bào tử từ bộ sưu tầm của Terrence McKenna. Khi đó Gee liên tục lựa chọn từ những quả thể kích thước to và có phản ứng đổi xanh mạnh khi bị tác động vật lý. Cứ như vậy, tới năm 1978, các bào tử Amazon này ngày càng mạnh lên và bắt đầu có hình dáng dương vật. Gee không hề có ý định lựa chọn kiểu hình mũ nấm này. Tính trạng này là kết quả của sự đột biến ngẫu nhiên gắn liền với tính trạng hoạt chất cao. Khoảng những năm 2000, kiểu hình này trở nên vô cùng phổ biến trên các diễn đàn như Shroomery. Tuy nhiên chúng sản xuất khá ít bào tử, gây ra sự mất cân bằng cung – cầu trầm trọng. Sporeworks bắt đầu bán giống PE vào năm 2002 sau khi đã hoàn thiện phương pháp chiết xuất bào tử riêng.
Giờ chúng ta có hai biến thể đột biến Ps. Cubensis, cả hai đều có hình dáng đặc biệt và hoạt chất cao. Tôi nghĩ thầm rằng một giống Penis Envy bạch tạng sẽ khá là ngầu đó. Trước đây tôi chưa từng thực hiện lai tạo nấm bao giờ, nhưng tôi có một vài ý tưởng về cách làm điều đó.
Lai tạo và chọn lọc kiểu hình để tạo ra Albino Penis Envy
Ban đầu tôi chưa bao giờ mơ tới việc một ngày sẽ lai tạo giống nấm. Khi trồng PF Albino và một vài giống nấm có màu trắng thuần khiết khác, tôi quyết định thử dùng kính hiển vi kiểm tra xem chúng có vô sinh như mội người đoán không. Rõ ràng chúng có bào tử, và giống như quả thể sinh ra chúng, những bào tử này không có màu. Với một chúng cố gắng tôi đã bắt đầu thu được một vài bản in bào tử (rất khó nhìn thấy, gần như tàng hình) từ những mũ nấm trưởng thành. Tôi kiểm tra khả năng nảy mầm của chúng trên các đĩa petri và chúng nảy mầm chỉ trong vài ngày.
Tuy nhiên tôi để ý rằng có khá ít thuộc địa phát triển và chúng cách nhau khá xa. Tôi cho rằng điều này là do có quá ít bào tử và chúng khá khó nảy mầm. Những điểm nảy mầm cách xa nhau khiến tôi nghĩ chúng có thể là các thuộc địa monokaryon (từ đơn bào tử). Nếu điều này là đúng, tôi có thể dùng chúng để thí nghiệm lai tạo, maybe là tạo ra giống APE! Để ngăn chúng kết cặp với nhau thành sợi dikaryon, tôi nhanh chóng cấy chuyền chúng ra đĩa mới.
Có lẽ tôi nên giải thích một chút về giới tính của nấm trước khi kể tiếp. Nói đơn giản nhất, cần có hai bào tử tương thích để tạo ra hệ sợi đôi (2n) dikaryotic mycelium. Hệ sợi đơn monokaryotic tạo ra từ một bào tử (1n) thường sẽ không thể tạo ra quả thể, nhưng lại rất hữu dụng để lai tạo. Việc ghép cặp 2 hệ sợi mono xảy ra chỉ đơn giản thông qua việc cho chúng phát triển trên cùng một môi trường dinh dưỡng agar.
Để xác nhận mẫu thu được là sợi đơn monokaryotic, tôi đặt mẫu dưới kính hiển vi và tìm các điểm nối cặp. Các điểm này nhìn giống như các mấu nhỏ lồi lên trên các tế bào hyphae và khi có các điểm này có nghĩa là có sự dịch chuyển của nhân tế bào bên trong hệ sợi dikaryotic. Một hệ sợi không có các điểm nối này có nghĩa là chúng là hệ sợi mono – thứ mà tôi đang tìm kiếm.
Cùng lúc đó, tôi đang đọc cuốn sách mới mua “Di truyền và Phương pháp lai tạo nấm ăn” bởi A.C. Chang. Tôi xin trích đoạn sau ở trang 47:
Trong họ Nấm, khi hai sợi đơn kết cặp với nhau, chúng tạo ra môi trường kết cặp heterokaryotic trong các tế bào đang phát triển. Nhân tế bào dịch chuyển qua màng tế bào và trao đổi thông tin di truyền. Hiện tượng này được quan sát lần đầu bởi Buller khi quan sát các điểm nối cặp. Điều này cũng xảy ra ở vị trí cách xa điểm nối. Tốc độ dịch chuyển ở mỗi giống là khác nhau, từ 0.5mm/h ở giống Coprinus lagopus (Buller, 1931) tới 40mm/h ở Coprinus congreatus (Ross, 1976). Lợi thế đối với sinh vật đó là môi trường heterokaryotic này không bị giới hạn ở các điểm nối mới mà có thể lan truyền với tốc độ cao khắp các tế bào trong thuộc địa.
Tôi là người khá lười và không muốn bỏ thời gian phân lập thêm thuộc địa đơn từ một giống khác, kết cặp… Sau khi tìm hiểu tôi biết được cơ chế mà hệ đơn có thể trở thành hệ đôi nhờ hiện tượng dịch chuyển nhân tế bào ở bất kì đâu không chỉ ở điểm nối mới nơi 2 sợi đơn gặp nhau. Hiểu đơn giản thì toàn bộ thuộc địa monokaryotic có thể trở thành dikaryotic thông qua việc nhân bản và dịch chuyển nhân tế bào một cách dây chuyền xuyên suốt mạng lưới hệ sợi đã có sẵn.
Tôi đưa mẫu monokaryotic đã xác nhận của giống PF Albino vào một hũ meo tiệt trùng và để chúng chiếm hữu toàn bộ hũ meo này. Sau đó tôi pha một ống dung dịch bào tử PE và cấy vào hũ meo trên, lắc lên cho đều. Mục đích là ngăn không cho bất kì bào tử PE nào có cơ hội chiếm hữu dinh dưỡng, kết cặp và phát triển. Trên lý thuyết thì các bào tử PE sẽ nảy mầm và một số sẽ kết cặp với hệ sợi PF Albino sẵn có. Sự dịch chuyển nhân tế bào xảy ra và biến toàn bộ hũ PF Albino monokaryotic thành dikaryotic PF Albino x Penis Envy.
Hũ meo này cần được cho ra quả trực tiếp mà không được trộn với chất nền bổ sung bất kì nào. Ngạc nhiên thay phương pháp này tạo ra những quả thế rất… bình thường mà không có dấu hiệu nào giống tính trạng lai tạo mong muốn hay đột biến bất kì. Do cả 2 cá thể này đều thuộc dòng dõi Amazon, đây có thể là hình dáng xưa nhất của chúng khi mới được thu thập.
Ảnh: PF Albino x Penis Envy (F1)
Giờ đây chúng ta có giống có chứa thông tin di truyền từ đời cha mẹ F0, phần khó nhất đã qua. Tôi có thể dùng các bào tử đời F1 và sử dụng chúng để nhân ra các mẫu giống đa bào tử mới. F1 có chứa 50-50 gen bố mẹ và tất cả nhìn giống nhau. Nhưng Điều tôi quan sát được là từ F2 chúng ta có thể bắt đầu thấy nhiều tổ hợp kiểu hình mới.
Sau khi lựa chọn bào tử từ các mẫu quả tiềm năng từ đời F2, lần đầu tôi được chiêm ngưỡng kết quả mà tôi tìm kiếm: một quả thể bạch tạng với mũ nấm hình dương vật xuất hiện ở đời F3, và một kiểu hình khác cũng xuất hiện mà sau này được gọi là PE Uncut.
Sau khi trồng và nhân giống bào tử một vài đợi nữa để ổn định tính trạng, chúng ta có giống APE phổ biến ngày nay. Cũng như giống PE ban đầu, mũ giống APE không tạo ra hay giải phóng bào tử. Nhưng chúng có thể được quan sát dưới kính hiển vi và trích xuất từ các lá tia. Tôi cũng đã phát triển một phương pháp bí mật cho phép tách và cô đặc bào tử sử dụng máy li tâm cho xi lanh.
Tôi tạo ra giống APE đơn thuần vì mục đích nghệ thuật đi tìm cái đẹp chứ không hề tìm kiếm một giống Ps. Cubensis siêu mạnh nào đó. Các báo cáo luôn đánh giá APE là vô cùng mạnh, và kết quả thực tế mãi năm 2022 mới được công bố thông qua báo cáo từ phòng thí nghiệm trong cuộc thi Psilocybin Cup tổ chức bởi Hyphae Labs và APE gần nắm top về độ mạnh.
Năm 2023 giống APE lại thắng giải Psychedelic Cup lần đầu tổ chức tại Colorado:
https://www.5280.com/what-we-learned-at-colorados-first-psychedelic-cup/
Nguồn: Sporeworks
Tác giả: John Workman